Giảng viên ĐH Bách khoa Hà Nội đạt giải thưởng Quả Cầu Vàng 2019

0
1844

TS. Lê Văn Lịch – Viện KH&KT Vật liệu, Trường ĐH Bách khoa Hà Nội đã đạt Giải thưởng QUẢ CẦU VÀNG năm 2019 – giải thưởng uy tín tôn vinh các tài năng trẻ Việt Nam có thành tích xuất sắc trong học tập, công tác trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Trò chuyện với thầy giáo trẻ Trường ĐH được xếp hạng thứ 4 khu vực ASEAN, thực sự ấn tượng với chia sẻ của anh: Tôi làm việc với nguyên tắc 110%…

Hiện thực hóa các tính chất mới, hữu ích của vật liệu

Anh là 1 trong 10 nhà khoa học trẻ Việt Nam nhận giải Quả cầu Vàng 2019 lĩnh vực Công nghệ vật liệu mới. Anh có thể chia sẻ cảm xúc cá nhân khi nhận giải thưởng danh giá này?

“Bất ngờ và hạnh phúc”, đó là cụm từ diễn tả chính xác nhất cảm xúc của tôi khi nhận được thông tin về kết quả của giải thưởng.

Giải thưởng Khoa học công nghệ Thanh niên Quả Cầu Vàng là một giải thưởng có uy tín và là phần thưởng cao quý do T.Ư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp tổ chức, do đó, giải thưởng này thu hút sự tham gia của nhiều ứng viên xuất sắc trong mỗi lĩnh vực. Khi nhìn vào hồ sơ chi tiết của các ứng viên trong lĩnh vực Công nghệ vật liệu mới, tôi đã nghĩ mình không có nhiều cơ hội để được nhận giải năm nay vì nhiều hồ sơ của các ứng viên thực sự nổi bật. Đặc biệt, trước đó, tôi có biết đến và mến mộ tài năng của nhiều ứng viên tham gia giải thưởng năm nay trong cùng lĩnh vực thông qua các công trình nghiên cứu của họ. Mỗi ứng viên tham gia đều có điểm mạnh riêng phù hợp với các tiêu chí của giải thưởng.

Việc nhận được giải thưởng là một yếu tố bất ngờ, và tôi cho rằng mình đã may mắn hơn các ứng viên khác. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới quý thầy, cô, đồng nghiệp, bạn bè, các em sinh viên và người thân đã luôn giúp đỡ và ủng hộ tinh thần đối với những việc tôi đang làm.

Hẳn người ngoại đạo sẽ tò mò muốn biết anh đã chế tạo ra vật liệu mới gì? Anh có thể giới thiệu tóm tắt về sáng tạo của mình?

Lĩnh vực khoa học và kỹ thuật vật liệu rất rộng và đa dạng, trong đó, hướng nghiên cứu mà tôi đang theo đuổi không thiên về việc chế tạo ra vật liệu mới, mà tập trung dự báo những tính chất vật liệu mới khi kích thước vật liệu thu nhỏ đến cỡ nano-mét và giải mã những cơ chế ẩn phía sau những hiện tượng lạ thu được từ thực nghiệm, sử dụng phương pháp mô phỏng số. Hướng nghiên cứu này đóng vai trò trong việc định hướng cho các nghiên cứu thực nghiệm nhằm hiện thực hóa các tính chất mới, hữu ích của vật liệu, hoặc chỉ ra cách thức để cải thiện các tính chất vật liệu theo hướng có lợi cho các ứng dụng.

Cụ thể, nhóm nghiên cứu chúng tôi phát triển và sử dụng phương pháp mô phỏng số pha-trường (phase field model) để nghiên cứu các tính chất cơ học và vật lý của vật liệu nano sắt điện, nano từ, và nano đa tính sắt. Phương pháp mô phỏng số pha-trường mô tả được nhiều hiện tượng xảy ra ở cấp độ meso-scale (dải kích thước liên kết giữa kích cỡ nano-mét và kích thước khối). Đặc biệt, phương pháp này rất hiệu quả trong việc mô tả các quá trình chuyển pha vật liệu, chuyển pha của các trường vật lý, chuyển chất và chuyển khối, do đó, phù hợp với việc tìm ra mối liên hệ giữa cấu trúc và tính chất vật liệu.

Thầy giáo trẻ Lê Văn Lịch say mê chia sẻ kiến thức, truyền cảm hứng khám phá khoa học cho học sinh, sinh viên

Thu hút sinh viên NCKH bằng cảm nhận đẹp về công nghệ

Là một giảng viên trẻ (31 tuổi), anh làm thế nào để cân bằng được thời gian nghiên cứu, công việc, cuộc sống…? Có bao giờ anh thấy công việc bị quá tải và cá nhân anh làm thế nào để giảm stress, F5 lại suy nghĩ, cảm hứng?

Tôi trở về nước làm việc tính đến nay được hơn hai năm. Năm đầu tiên là quãng thời gian tôi bị mất cân bằng trong việc phân bổ thời gian cho nghiên cứu, giảng dạy và cuộc sống. Gần như toàn bộ quỹ thời gian tôi đều dành cho công việc, và có rất ít thời gian cho bản thân.

Tôi rời nước Nhật sau khóa học Tiến sĩ và nghiên cứu sau Tiến sĩ, và để lại cả những ý tưởng còn dang dở nhằm tránh những chồng chéo với Lab cũ trong các công trình nghiên cứu trong tương lai. Về Việt Nam, tôi cùng với đồng nghiệp ở ĐHBKHN xây lại mọi thứ từ đầu, tìm hướng đi mới để trở nên độc lập hơn trong các ý tưởng nghiên cứu và tăng cơ hội mở rộng hợp tác.

Nếu như trước đây (khi ở Nhật Bản), công việc chính của tôi là nghiên cứu, hướng dẫn sinh viên, viết bài, công bố bài báo và tham dự hội nghị, thì khi về lượng công việc trở nên nhiều hơn, phải kể thêm như giảng dạy, viết đề xuất nghiên cứu, bình duyệt bản thảo, tham gia xây dựng và quản lý nhóm nghiên cứu, tổ chức hội thảo và hội nghị khoa học, và giới thiệu hướng nghiên cứu tới cộng đồng khoa học trong nước. Do khối lượng công việc lớn, trong khi quỹ thời gian có hạn, tôi ở trong tình trạng quá tải trong thời gian dài và sức khỏe cũng bị bào mòn nhanh.

Tôi may mắn nhận được nhiều chia sẻ kinh nghiệm quý báu từ nhiều thầy, cô và đồng nghiệp trong việc quản lý thời gian, tiến độ công việc và vận hành nhóm nghiên cứu, vì vậy, sau một năm đầu nhiều việc đã được chuẩn hóa và đi vào hoạt động ổn định. Hiện tại, cuộc sống và công việc của tôi cũng đang dần trở nên cân bằng hơn.

Đối với tôi, áp lực (stress) thường đến từ hai nguyên nhân chính: Công việc nhiều nhưng thời gian giải quyết ngắn và kỳ vọng lớn nhưng năng lực bản thân có hạn. Để hạn chế nguyên nhân đầu tiên, tôi làm việc với nguyên tắc 110%, đó là cố gắng giải quyết toàn bộ công việc trong ngày và thêm 10% cho các công việc cố định của ngày hôm sau. Nguyên tắc này giúp tôi có thể cân đối được thời gian khi có việc đột xuất.

Với nguyên nhân thứ hai, tôi tuân theo quan điểm “mong đợi thứ tốt đẹp nhất, chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất”. Điều này giúp tôi hạn chế được những suy nghĩ mang tính chủ quan, và chủ động hơn trước nhiều tình huống xảy ra.

Với thầy giáo trẻ, anh chinh phục các sinh viên của mình như thế nào? Tiếp thu, lĩnh hội những ưu việt của  nền giáo dục Nhật, liệu có chất “Nhật Bản” nào đó trong các bài giảng, phong cách giảng dạy của anh không?

Nếu “chinh phục” sinh viên là việc gợi mở vấn đề để thu hút sinh viên tham gia vào các cuộc thảo luận về công nghệ và phát minh, hoặc thu hút sinh viên tham gia vào nhóm nghiên cứu, thì tôi thường bàn nhiều về giá trị cốt lõi và lịch sử hình thành của những công nghệ hoặc phát minh đó. Với tôi, đây là hai góc cạnh bao hàm nhiều nét đẹp nhất và dễ cảm nhận nhất.

Nói về ảnh hưởng của giáo dục Nhật tới phong cách giảng dạy của tôi, có thể diễn tả ngắn gọn qua cụm từ “tôn trọng, trung thực, trách nhiệm, kỷ luật”.

Giáo sư ĐH Kyoto trân trọng trao bằng tốt nghiệp cho tân Tiến sĩ Lê Văn Lịch. Chiếc khăn màu tím là một nét đặc trưng của Trường ĐH Kyoto, khi nhận bằng Tiến sỹ thì nghiên cứu sinh đeo khăn màu tím, nhận bằng Thạc sỹ, SV đeo khăn màu xanh

Mơ ước xây dựng cộng đồng “phase field” Việt Nam

Những người giỏi, nhân tài thường nhận được những lời mời chào hấp dẫn. Nhưng một cựu sinh viên BKHN như anh, đi học nước ngoài, có những danh tiếng, thành quả khoa học nhất định nhưng vẫn trở về gắn bó với ngôi trường từng học ĐH. Điều gì khiến con chim tung cánh phương xa vẫn quyết quay về chốn xưa vậy, thưa anh? Điều gì khiến anh thấy hài lòng nhất khi công tác tại ĐHBK Hà Nội?

Khi làm việc ở Nhật Bản, tôi đã từng có một mong ước một ngày nào đó sẽ cùng nhiều nhà khoa học khác ở trong nước xây dựng được cộng đồng “phase field” Việt Nam và ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu có địa chỉ ở Việt Nam trong lĩnh vực này.

Với khoảng 6 năm kinh nghiệm, từ trải nghiệm người dùng đến vai trò là người phát triển phương pháp mô phỏng số pha-trường (Phase field model), tôi nhận ra được rằng đây là một công cụ mạnh và hữu ích để nghiên cứu nhiều hiện tượng diễn tiến trong vật liệu, và còn nhiều khoảng trống để tiếp tục nghiên cứu.

Một số đồng nghiệp người Việt Nam mà tôi biết cũng đang nghiên cứu về lĩnh vực này, tuy nhiên, tất cả vẫn đang công tác và có nhiều cơ hội thăng tiến ở nước ngoài. Việc xây dựng cộng đồng “phase field” Việt Nam cần nhiều thời gian và công sức, nhưng không bắt tay vào làm luôn thì sẽ còn rất lâu nữa mới được hình thành. Đó là một trong những lý do tôi trở về nước làm việc.

Tôi đã trưởng thành và được mở mang nhận thức từ ĐHBK Hà Nội, vì vậy, tôi thấy mình còn nhiều “duyên nợ” với nơi này. Ngoài ra, sinh viên của trường có nhiều em có tố chất tốt, rất phù hợp cho việc hợp tác để cùng nhau hiện thực hóa những ý tưởng nghiên cứu.

Điều khiến tôi ấn tượng khi ở ĐHBK Hà Nội đó là sự chủ động và năng động trong các công việc và các hoạt động của cả thầy, cô và các em sinh viên. Tôi cho rằng đây là một trong những yếu tố quan trọng giúp ĐHBK Hà Nội thích ứng nhanh với những yêu cầu ngày càng cao của xã hội.

Một số người thân có nói anh rất khiêm tốn, ngại nói về mình, ngại “lộ sáng”! Nhưng dường như phong cách này lại đi ngược với thời đại 4.0 khi mọi  người cần kết nối và “open” trong các suy nghĩ, quan điểm. Anh nghĩ thế nào về điều này?

Tôi đồng tình với quan điểm cho rằng, trong giai đoạn hiện tại, việc kết nối và chia sẻ là một xu hướng thịnh hành và đóng góp rất nhiều cho sự thành công của mỗi cá nhân, đặc biệt trong nghiên cứu khoa học.

Tuy nhiên, tôi phân định rất rõ ranh giới giữa việc nói về bản thân và nói về những việc mình làm. Tôi ngại nói về bản thân, nhưng tích cực trong việc trao đổi, chia sẻ và hợp tác trong nghiên cứu khoa học. Trong hai năm vừa qua, tôi tham gia nhiều diễn đàn khoa học, kết nối và triển khai được thêm nhiều hợp tác với đồng nghiệp trong nước và nước ngoài.

Đứng trước mỗi sự việc, mỗi người sẽ có một ánh nhìn riêng, có thể theo thiên hướng tích cực, trung lập, hoặc không tích cực. Cá nhân tôi tôn trọng sự khác biệt và những ý kiến phản biện.

Xin cảm ơn anh về cuộc trao đổi!

“Nhóm nghiên cứu của chúng tôi mất hơn 1 năm mới phát triển thành công một chương trình tính toán pha-trường mới cho một loại vật liệu đặc biệt, đó là vật liệu sắt điện có thành phần biến thiên trong không gian. Đây là một chương trình tính toán có nhiều điểm khác biệt so với các nhóm mô phỏng số pha-trường khác trên thế giới. Chúng tôi cũng có một số công trình được công bố năm 2019 để chứng minh tính đúng đắn của chương trình tính toán mới này.

Trong năm 2020, chúng tôi sẽ tiếp tục khai thác chương trình tính toán này nhằm dự báo những tính chất mới lạ hoặc tìm ra phương pháp để tăng cường các tính chất của vật liệu sắt điện có thành phần biến thiên.” – TS. Lê Văn Lịch

Gia Hân (thực hiện)

 

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here